bn1
bn2
bn3
bn4
bn5
Đổi mới hoạt động, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh toàn diện, tập trung thực hiện tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động; tham gia nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần phát triển nhanh và bền vững tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Giá trị tư duy của Đảng trong chiến lược giải phóng miền Nam đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới gần 40 năm qua (1986-2025) đã “đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” [8, tr.25]. Hiện nay, Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước đẩy mạnh đổi mới, đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc. Việc nghiên cứu tư duy của Đảng trong chiến lược giải phóng miền Nam để đúc rút giá trị vận dụng vào tiếp tục phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước là rất cần thiết.

Hoàn cảnh lịch sử tác động đến hoạch định, hoàn chỉnh kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Sau Hiệp định Paris 1973, thực tiễn có những thuận lợi và khó khăn tác động đến hoạch định đường lối cách mạng giải phòng miền Nam, thống nhất đất nước của Đảng.

Về khách quan: Hiệp định Paris được ký kết, quân Mỹ và đồng minh phải rút ra khỏi miền Nam, nhưng vẫn âm mưu thực hiện việc biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Mỹ đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhằm làm giảm sự ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam, trong khi quân đội Sài Gòn tiến hành càn quyét, lấn chiếm nhằm thực hiện “kế hoạch bình định” hoàn toàn miền Nam. Với chủ trương “4 không”, không nhường đất cho cộng sản, không liên hiệp với cộng sản, không công nhận cộng sản, không trung lập miền Nam, Nguyễn Văn Thiệu đã vi phạm hầu hết các điều khoản đình chiến, mở các cuộc hành quân, càn quyét, lấn chiếm. Trong 2 năm, 1973 và 1974, chính quyền Sài Gòn đã mở hàng vạn cuộc hành quân lớn nhỏ vào địa bàn do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát. Tuy nhiên, lúc này mâu thuẫn trong lòng xã hội Mỹ trở nên sâu sắc mà đỉnh điểm là vụ Oa tơ ghết (Watergate) lật đổ Tổng thống Níchxơn và điều này đã đánh dấu “một trong những thời kỳ khó khăn nhất và bi thảm nhất của nước Mỹ”; các nước Tây Âu, Nhật Bản, Liên Xô có bước phát triển vượt Mỹ về sản lượng công nghiệp, kỹ thuật quân sự, than đá, dầu mỏ…; sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng các nước châu Á, châu Phi đã ảnh hưởng lớn đến Mỹ trong thực hiện mục đích trên. Điều đó vừa gây ra khó khăn, vừa tạo thuận lợi cho cách mạng miền Nam Việt Nam.

Về chủ quan: Sau Hiệp định Paris, đế quốc Mỹ “ít có khả năng quay trở lại con đường trực tiếp tiến hành chiến tranh như trước, mặc dù Mỹ vẫn duy trì một cam kết nhất định về quân sự đối với bè lũ tay sai” [5, t.34, tr.153] nên tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng. Uy tín của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế và cùng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đẩy mạnh cuộc tiến công ngoại giao lên án những hành động phá hoại Hiệp định Paris của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Trong năm 1973, có hơn 10 đoàn [10, tr.394] ngoại giao cấp cao các chính phủ và tổ chức quốc tế đến thăm Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đến cuối năm 1974, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập quan hệ ngoại giao với khoảng 90 nước và tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, sau Hiệp định Paris, miền Bắc do đế quốc Mỹ đã ném hơn 100.000 tấn bom đạn cùng các loại vũ khí hiện đại, tối tân trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai nhằm hủy diệt miền Bắc đã làm cơ sở hạ tầng của nhân dân miền Bắc xây dựng hàng chục năm bị phá hủy hoàn toàn, gây khó khăn đến việc chi viên cho miền Nam thực hiện cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Đại hội lần thứ IV của Đảng (12/1976) đánh giá, chiến tranh phá hoại của Mỹ “đã phá hủy hầu hết những cái mà nhân dân ta đã tốn bao công sức xây dựng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm trễ đến vài ba kế hoạch 5 năm và làm đảo lộn cả nếp sống quản lý kinh tế” [4, tr.37-38]; một số nơi, chưa nhận thức đầy đủ phương hướng phát triển của cách mạng nên đã để mất thế chủ động trên chiến trường, có biểu hiện lừng chừng, hữu khuynh trong đối phó với địch. Từ thực tiễn phát triển cách mạng miền Nam, Đảng đã có nhận định phù hợp, hoạch định kế hoạch giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975 (Ảnh Tư liệu)

 

Tư duy của Đảng trong hoạch định, hoàn chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam, thể hiện qua việc phân tích, nhận định đúng thực tiễn và chiến trường; trong triển khai thực hiện đã theo dõi, phân tích thực tiễn để điều chỉnh, bổ sung; kế hoạch bao quát các nội dung, các giải pháp cụ thể, khả thi; huy động sức mạnh trí tuệ của tập thể trong hoạch định kế hoạch, cụ thể như sau:

Đảng đã phân tích, nhận định đúng thực tiễn và chiến trường. Ngày 24/5/1973, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng nhận định, phân tích, phê phán những khuyết điểm, sơ hở, lệch lạc của một số địa phương trong đối phó với địch nên đã để chúng lấn chiếm, bình định được nhiều vùng, gây tổn thất nhất định cho cách mạng. Hội nghị khẳng định con đường cách mạng miền Nam chỉ có thể dành thắng lợi bằng bạo lực cách mạng. Năm 1973, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 21 (Đợt 1, tháng 6 và đợt 2, tháng 10/1973), ra bản Nghị quyết “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”, theo đó, đã phân tích và đi đến nhận định tình hình cụ thể ở miền Nam. Năm 1974, Trung ương Đảng nhận thấy tình hình cách mạng miền Nam cần phải có một bước chuyển biến nhảy vọt, việc nhận định đúng tình hình để có quyết sách phù hợp, kịp thời là rất cần thiết, nên ngày 30/9 – 08/10/1974, Bộ Chính trị họp bàn về chủ trương giải phóng miền Nam. Theo đó, Hội nghị đã phân tích, nhận định nhiều vấn đề, từ đó phê duyệt kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam của Bộ Tổng Tham mưu dự thảo.

Sau khi thực hiện kế hoạch, thì tiếp tục theo dõi, phân tích thực tiễn để điều chỉnh, bổ sung. Ban đầu kế hoạch có tên là kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam sau vài ba lần thay đổi so sánh lực lượng, mang số 133/TG1, hoàn thành ngày 16/5/1974; sau cuộc họp của đồng chí Lê Duẩn với Tổ trung tâm – Bộ Tổng Tham mưu, kế hoạch được điều chỉnh là kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam, hoàn thành ngày 26/8/1974; sau đó, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương vừa chỉ đạo thực hiện, vừa theo dõi, phân tích diễn tiến tình hình để kịp thời bổ sung, điều chỉnh cho sát với thực tiễn chiến trường. Bộ Chính trị nhận thấy cần có thêm thời gian đánh giá, thảo luận kỹ hơn, sâu sắc hơn, xây dựng kế hoạch đầy đủ hơn để đi đến hạ quyết tâm chiến lược có cơ sở khoa học, bảo đảm chắc thắng. Nên từ ngày 18/12/1974 đến 08/01/1975, Bộ Chính trị họp hội nghị mở rộng thảo luận, quyết định, từ đó nhất trí phê chuẩn dự thảo Kế hoạch của Bộ Tổng Tham mưu.

Kế hoạch chiến lược bao quát các nội dung, các giải pháp cụ thể, khả thi; nêu các bước thực hiện, mục tiêu mỗi bước, các đợt tiến công, hướng chiến lược và nhiệm vụ cụ thể của từng chiến trường, dự kiến thời điểm xuất hiện thời cơ… ngoài ra, còn đề cập đến các vấn đề hậu cần bảo đảm thực hiện kế hoạch; khả năng tái can thiệp của Mỹ khi ta đánh lớn; khả năng nổi dậy của quần chúng, nhất là ở Sài Gòn – Gia Định…

Đảng đã tập trung sức mạnh trí tuệ của tập thể trong hoạch định kế hoạch. Để xây dựng kế hoạch chiến lược, Đảng đã huy động trí tuệ tập thể Trung ương Đảng, nhất là Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu (giúp dự thảo Kế hoạch chiến lược trình Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương) [11, tr.9], lãnh đạo, chỉ huy các chiến trường để kế hoạch bảo đảm sát với thực tiễn chiến trường, tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng. Kế hoạch chiến lược được Bộ Tổng Tham mưu dự thảo, xin ý kiến Bộ Chính trị qua nhiều cuộc họp (tháng 10/1974 và tháng 01/1975), một số đồng chí Bộ Chính trị họp với Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu.

Kế hoạch thể hiện sự mưu trí, dũng cảm, quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, phản ánh khát vọng hòa bình, thống nhất, độc lập của nhân dân Việt Nam. Phát biểu kết thúc Phiên họp thứ nhất, sáng ngày 10/8/1974, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Bộ Chính trị đã nhất trí hạ quyết tâm hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam… Đây là quyết định dũng cảm, có thể nói là táo bạo. Song quyết định này là kết quả trí tuệ tập thể của Bộ Chính trị, là kết quả của những suy nghĩ nung nấu từ lâu, của sự cân nhắc chín chắn xuất phát từ kinh nghiệm tích lũy qua mấy mươi năm chiến đấu, xuất phát từ thực tiễn cách mạng trên chiến trường, từ lực lượng so sánh trong nước và trên thế giới” [7, t.37, tr.172-173].

Về kết quả chiến dịch Đường 14 – Phước Long, sau 26 ngày đêm chiến đấu, đến ngày 06/01/1975 kết thúc thắng lợi, toàn bộ thị xã Phước Long được giải phóng. Chiến thắng Phước Long có ý nghĩa là đòn chinh sát rất quan trọng, đánh dấu sự xụp đổ của Mỹ – Ngụy. Đài BBC đã nhận xét “Bây giờ hình như Tổng thống Ford chẳng biết làm gì thêm ngoại trừ ngồi đợi và hy vọng là những điều tai hại khác sẽ không xảy ra” [1, tr.182].

Chiến dịch Tây Nguyên, mở đầu bằng đánh Buôn Ma Thuật (ngày 10/3/1975), sau 2 ngày chiến đấu đã làm chủ thị xã, đến ngày 24/3/1975 chiến dịch Tây Nguyên toàn thắng. Chiến thắng Tây Nguyên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đưa “cuộc Tổng tiến công chiến lược của ta đã bắt đầu… Cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt” [5, t.34, tr.172-173]. Với chiến dịch Tây Nguyên và thực tế chiến trường đang diễn ra sau đó, Trung ương đã hạ quyết tâm: “Chuyển cuộc tiến công chiến lược thành cuộc Tổng tiến công chiến lược hoàn thành kế hoạch hai năm (1975-1976) ngay trong năm 1975” (Kế hoạch thời cơ được đề ra tại Hội nghị Bộ Chính trị tháng 01/1975).

Chiến dịch Huế – Đà Nẵng, trong 10 ngày (từ ngày 21 đến 29/3/1975) đã giải phóng Huế – Đà Nẵng và các tỉnh ở miền Trung. Thắng lợi trong chiến dịch Huế – Đà Nẵng có ý nghĩa vô vùng quan trọng đẩy địch vào thế tuyệt vọng. Trong bức thư Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gửi Tổng thống Giê rôn Pho (Gerald Ford) trong lúc quân ta đang tấn công quyết liệt: “… Thưa Ngài Tổng thống. Một lần nữa tôi xin khẩn cầu Ngài, khẩn cầu chữ tín trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ và đặc biệt khẩn cầu lương tâm của nước Mỹ…” [17, tr.391].

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng vào 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc địch phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tổng thống Dương Văn Minh đã đọc tuyên bố đầu hàng không điều kiện trên Đài Phát thanh Sài Gòn: “Tôi Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chánh quyền Sài Gòn, kêu gọi quân lực hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chánh quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn, giao toàn bộ chánh quyền cho Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam” [14, tr.536].

Quân giải phóng chiếm dinh tỉnh trưởng tỉnh Phước Tuy ngày 27-4-1975 (Ảnh tư liệu)

 

Giá trị tư duy của Đảng trong chiến lược giải phóng miền Nam với sự nghiệp đổi mới Việt Nam hiện nay. Đất nước đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đã “đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử” [8, tr.25]. Nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, phấn đấu: “Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, có thu nhập cao” [8, tr.36]. Nghiên cứu tư duy của Đảng trong hoạch định kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện:

Một là, phát huy tư duy, trí tuệ của Đảng với việc hoạch định đường lối cách mạng và khẳng định vai trò không thể thay thế của Đảng trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Hoạch định đường lối cách mạng, trong đó có kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam đem đến giá trị quan trọng, là căn cứ khoa học để tập hợp sức mạnh của dân tộc và tổ chức cuộc đấu tranh của nhân dân ta, góp phần làm nên thắng lợi to lớn của dân tộc Việt Nam: “Thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc”. Ngày nay, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới gần 40 năm nâng tầm vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế, cũng có nguồn gốc sâu xa từ phát huy giá trị tư duy của Đảng trong hoạch định kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.

Hai là, Đảng phải luôn coi trọng, bám sát thực tiễn hoạch định chủ trương, đường lối cách mạng. Quá trình lãnh đạo đất nước đổi mới, Đảng luôn coi trọng vai trò của thực tiễn: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan” [6, tr.27], phân tích kỹ thực tiễn để có giải pháp thực hiện hiệu quả: “Chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ” [8, tr.98]. Nên có được những kết quả: “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay” [8, tr.104], cũng bắt nguồn từ tư duy của Đảng trong hoạch định kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.

 Ba là, chủ trương, đường lối phải bao quát nhiều nội dung, lĩnh lực, giải pháp phong phú và hiệu quả. Giúp Đảng có cách nhìn tổng thể, toàn diện các mặt, chủ động tập hợp nhân lực, vật lực… lãnh đạo cuộc đấu tranh của quân dân ta đến thắng lợi cuối cùng. Xuyên suốt quá trình lãnh đạo đất nước đổi mới, Đảng luôn coi trọng và phát huy giá trị này. Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định: “Bảo đảm hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò động lực của con người, văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước” [8, tr.98].

Bốn là, phải thể hiện quyết tâm trong khâu thực hiện để đưa chủ trương, chính sách trở thành hiện thực, đồng thời theo sát thực tiễn để bổ sung, điều chỉnh chủ trương, chính sách cho phù hợp với thực tiễn; đoàn kết, thống nhất trong Đảng, huy động sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn Đảng, toàn dân trong xây dựng, phát triển đất nước. Nếu không có ý chí quyết tâm, thì tư tưởng sẽ không thành hiện thực… Bài học này cũng phản ánh mong mỏi, khát vọng độc lập, thống nhất đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như mỗi người dân Việt Nam. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn” [8, tr.97] để phát triển đất nước. Đoàn kết là bài học quá giá của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước. Từ khi có Đảng lãnh đạo, đất nước giành được những thắng lợi to lớn là do phát huy truyền thống đoàn kết theo lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [12, tr.622]. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục phát huy bài học đoàn kết trong xây dựng phát triển đất nước: “Tăng cường đồng thuận, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh” [8, tr.191].

Năm là, luôn độc lập, tự chủ trong hoạch định chủ trương, đường lối. Vì vậy, Đảng đã xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích  cực, có  trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” [8, tr.191].

TS. Nguyễn Huy Phương


Bài viết liên quan