bn1
bn2
bn3
bn4
bn5
Đổi mới hoạt động, xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh toàn diện, tập trung thực hiện tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động; tham gia nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần phát triển nhanh và bền vững tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

Công cuộc đổi mới đất nước của nhân dân ta đến nay đã được 35 năm. Với đường lối đổi mới đúng quy luật, đầy sáng tạo, hợp lòng dân do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay…”.

Đại biểu dự Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt phấn khởi chúc mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh được suy tôn là Chủ tịch danh dự của Mặt trận Liên Việt (tháng 3-1951) Ảnh: Sưu tầm

Nhờ có đổi mới mà đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển và bước vào hàng ngũ những nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được mở rộng, củng cố và tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chủ nghĩa xã hội được củng cố; vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới được nâng cao; sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng gấp nhiều lần, tạo tiền đề cho nhân dân ta tiếp tục phấn đấu xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Những thành tựu đó là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó “đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Triển khai Cương lĩnh, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại đoàn kết dân tộc, về công tác dân tộc, về tôn giáo, về các giai cấp, tầng lớp nhân dân, về người Việt Nam ở nước ngoài… Ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị (khóa XI) có Quyết định số 217-QĐ/TW ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội” và Quyết định số 218-QĐ/TW ban hành “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị – xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”.

Các chủ trương, đường lối nêu trên đã từng bước được thể chế hóa thành luật, pháp lệnh, chính sách và thể hiện ngày càng rõ nét tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

Quá trình thực hiện, các cấp ủy đảng đã quan tâm hơn đến sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, đến công tác Dân vận – Mặt trận. Chính quyền các cấp ở nhiều địa phương đã thật sự có chuyển biến về nhận thức và hành động trong quan hệ với nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội được thể chế hóa và từng bước được phát huy. Sự đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hóa đời sống xã hội, nhất là việc xây dựng Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và nhiều nơi gần đây bổ sung “dân thụ hưởng” đã góp phần quan trọng động viên nhân dân hăng hái tham gia các sinh hoạt chính trị của đất nước, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, đặc biệt là giúp nhau trong khó khăn, gần đây là trong phòng, chống dịch Covid-19.

Nhân dân rất mừng là từ sau Đại hội XII của Đảng, thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đặc biệt quan tâm, tiến hành trên tất cả các mặt, đã đạt được những kết quả nổi bật. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí chuyển biến mạnh mẽ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực từng bước được kiềm chế. Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng, nhất là các vụ án lớn, nghiêm trọng lần lượt được phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, chứng tỏ không có vùng cấm, không có ngoại lệ, được cán bộ, nhân dân hoan nghênh, đồng tình và lấy lại niềm tin trong dân.

Để đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng thật sự là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sau thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhân dân mong muốn: Đảng cần làm cho cả hệ thống chính trị, trước hết là các cấp ủy đảng, nhất là người đứng đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Cụ thể, cần nắm vững những quan điểm cơ bản và cũng là những định hướng chủ yếu về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay là:

1. Lợi ích cơ bản của nhân dân, của dân tộc ta ngày nay là độc lập, tự do và cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong chủ nghĩa xã hội. Lợi ích đó thể hiện hằng ngày trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc củng cố và tăng cường đoàn kết hiện nay không thể chung chung mà phải gắn chặt với việc bảo đảm các lợi ích đó của nhân dân thông qua những chính sách cụ thể, hợp lòng dân.

2. Hồ Chủ tịch đã tổng kết: “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”.

Một trong những động lực thúc đẩy nhân dân tăng cường đoàn kết trong tình hình hiện nay là quyền làm chủ của nhân dân phải được tôn trọng. Pháp luật và các cơ quan thi hành pháp luật phải bảo đảm để nhân dân thật sự là người chủ, thật sự làm chủ đất nước như Hiến pháp (sửa đổi, bổ sung) đã quy định.

3. Thắt chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân không chỉ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và của toàn dân. Do đó, thông qua hoạt động của mình, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội cần không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động để góp phần làm cho mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước luôn bền chặt, làm cho ý Đảng gắn với lòng dân.

4. Trong giai đoạn hiện nay, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có tác dụng trực tiếp và quyết định đến kết quả việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Vì vậy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội cần thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội như Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI).

Để có dân chủ thật sự và bảo đảm hài hòa lợi ích, cần “xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và vai trò làm chủ của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội”, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn ý thức rõ: Đảng trong lòng dân; Đảng tồn tại vì nhân dân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng, có thể tóm tắt trong tám chữ “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Vì vậy, đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa dân sẽ dẫn đến tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Với nhận thức sâu sắc đó, “Những người cộng sản Việt Nam biết ơn sâu sắc nhân dân và Tổ quốc Việt Nam đã sinh thành và nuôi dưỡng, xây dựng và ủng hộ Đảng với tất cả tấm lòng thủy chung son sắt, giúp Đảng thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam chân thành cảm ơn Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đã gắn bó keo sơn với Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng, lúc khó khăn, sóng gió cũng như khi thắng lợi vẻ vang; cùng Đảng tập hợp toàn dân dưới ngọn cờ đại nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đảng rất tự hào vì đã xứng đáng là một thành viên tích cực của Mặt trận Tổ quốc khối đại đoàn kết dân tộc”.

Ban TG-NC LĐLĐ tỉnh (Trích từ nguồn Báo Nhân dân ngày 25/10/2020)


Bài viết liên quan